Các phê phán chủ nghĩa hoài nghi Chủ_nghĩa_hoài_nghi

Sự xác tín tuyệt đối

Trước hết, trong cả ba luận cứ trên—luận cứ của Hume, của Descartes, và luận cứ vòng tròn—kết luận được rút ra là ta không thể chứng minh cái gì. Ta không thể chứng minh rằng dữ liệu cảm giác đại diện cho thực tại bên ngoài. Ta không thể chứng minh rằng không phải ta đang mơ. Ta không thể chứng minh rằng tri giác hay ký ức là đáng tin cậy. Nhưng giờ hãy tự hỏi mình: việc ta không thể chứng minh cái gì đó có nghĩa rằng ta không biết hay không? hay rằng tin vào cái đó là không hợp lý và đúng đắn?

Hãy lấy mối nghi ngờ mơ của Descartes làm ví dụ. Giả sử ta tin rằng ta không thể chứng minh rằng không phải ta đang mơ; và thậm chí ta còn có thể thừa nhận rằng có một khả năng nhỏ xíu rằng ta hiện đang mơ. Tuy nhiên, một người không theo chủ nghĩa hoài nghi có thể trả lời: Thế thì đã sao? Nếu tôi không chứng minh được rằng tôi đang không mơ thì đã sao? Ai quan tâm nếu có một khả năng nhỏ li ti rằng tôi đang nằm mơ thật? Điều đó có thực sự quan trọng đối với các khẳng định tri thức của tôi không?

Cá nhân Descartes cho rằng điều đó nhất định là quan trọng. Ông muốn có tri thức chắc chắn—tri thức không vướng một chút nghi ngờ. Và do vậy ông cho rằng nếu ta có thể có một chút nghi ngờ dù là nhỏ nhất về cái gì đó, thì ta không thực sự biết nó. Ví dụ, mối nghi ngờ mơ gợi ra một khả năng rất nhỏ rằng thực ra không phải độc giả đang đọc bài viết này mà độc giả có thể đang nằm mơ; và Descartes chắc sẽ nói (tại thời điểm đó—về sau ông cho rằng ông đã chứng minh thuyết hoài nghi này là sai) rằng bạn không biết rằng có phải bạn đang đọc bài này ngay lúc này hay không.

Do đó, ta phải tự hỏi: ta có bắt buộc phải có sự xác tính tuyệt đối, không có một chút nghi ngờ nào, để có được tri thức hay không? Đó sẽ chắc chắn là mức độ biện minh cao nhất, và khi đó ta có lẽ sẽ nói rằng tri thức đó không chỉ là niềm tin mà tính đúng đắn đã được biện minh đủ, mà nó còn là niềm tin chắc chắn đúng.

Nhiều nhà triết học không cho rằng một cấp độ biện minh mạnh đến vậy là cần thiết đối với tri thức. Họ nói rằng, dù sao thì ta vẫn có thể biết thời tiết sẽ như thế nào bằng cách xem bản tin dự báo thời tiết. Đôi khi ta sai, nhưng nếu ta đúng thì ta có tri thức. Do vậy, họ không đặc biệt bận tâm nếu họ không thể chứng minh rằng không phải họ đang nằm mơ. Họ cho rằng khả năng họ đang mơ là cực kỳ nhỏ, và rằng họ hoàn toàn được biện minh khi nghĩ rằng họ đang thức. Và họ không cần phải biết với độ xác tín tuyệt đối rằng họ đang thức, để được biện minh cho việc tin rằng họ đang thức. Cũng lưu ý rằng chính Descartes cuối cùng cũng đã loại bỏ các nghi ngờ hoài nghi của mình.

Điều thứ hai mà ta có thể nhận xét về chủ nghĩa hoài nghi: nếu người hoài nghi đòi hỏi độ xác tín tuyệt đối là một yêu cầu cho tri thức, thì ta có thể trả lời rằng chính điều đó cũng nên được áp dụng cho chính chủ nghĩa hoài nghi. Chính chủ nghĩa hoài nghi có hoàn toàn nằm ngoài các nghi ngờ hay không? Chẳng phải ta có thể đưa ra nhiều kiểu phê phán đối với chủ nghĩa hoài nghi? Do vậy, có vẻ như là không ai có thể biết rằng chủ nghĩa hoài nghi là đúng. Do đó, những người hoài nghi chủ nghĩa không thể biết rằng chủ nghĩa hoài nghi là đúng. Nhưng thực ra đây là một luận điểm yếu, vì nó không thực sự bác bỏ chủ nghĩa hoài nghi. Dù sao thì những người hoài nghi chủ nghĩa cũng có thể hoàn toàn vui vẻ thừa nhận rằng không ai biết chủ nghĩa hoài nghi có đúng hay không. Họ có thể hài lòng với việc nói rằng chủ nghĩa hoài nghi rất có thể đúng. Đó không phải loại tuyên bố mà đa số những người khác sẽ hài lòng.

Thuyết về độ tin cậy quy trình (Process Reliabilism)

Phê phán thứ ba, đặc biệt áp dụng cho luận cứ vòng tròn, là của triết gia người Scotland Thomas Reid. Reid lý luận như sau. Giả sử rằng những người hoài nghi chủ nghĩa nói đúng, và tri giác là không đáng tin cậy. Nhưng tri giác chỉ là một trong các quá trình nhậnthức của tôi; và nếu nó không đáng tin cậy thì các quá trình khác cũng phải không đáng tin cậy. Tất cả các năng lực của tôi đều chui ra từ cùng một cửa hàng; do đó, nếu một cái có lỗi thì những cái khác chắc cũng vậy. Nhưng điều đó có nghĩa rằng cả năng lực lập luận, cái mà những người hoài nghi chủ nghĩa sử dụng, cũng phải không đáng tin cậy nốt. Nói cách khác, khi ta lập luận, chắc chắn ta sẽ có sai sót, và do vậy ta không bao giờ có thể tin những luận cứ mà ta dành cho bất cứ khẳng định nào. Nhưng rồi điều đó cũng áp dụng cho luận cứ của những người hoài nghi chủ nghĩa dành cho chủ nghĩa hoài nghi! Vậy là nếu những người hoài nghi chủ nghĩa nói đúng, thì ta không nên quan tâm đến chủ nghĩa hoài nghi, vì những người hoài nghi chủ nghĩa đã đi đến kết luận hoài nghi bằng các lập luận. Và nếu những người hoài nghi chủ nghĩa đã sai, thì tất nhiên ta cũng không cần quan tâm đến chủ nghĩa hoài nghi. Trong trường hợp nào thì ta cũng không cần nghi ngờ một cách thật sự về sự đáng tin cậy của các năng lực nhận thức của mình.

Hình thức của luận cứ của Reid là một song đề, như sau: nếu P đúng, thì Q đúng; nếu P sai, thì Q đúng; hoặc P đúng hoặc P sai; do đó, Q luôn đúng. Những người hoài nghi chủ nghĩa hoặc đúng hoặc sai. Nếu họ đúng, nghĩa là ta không thể tin khả năng lập luận của ta và do đó không thể tin tưởng kết luận của những người hoài nghi chủ nghĩa. Nếu họ sai, thì một lần nữa, ta không thể tin tưởng kết luận của họ. Đằng nào thì ta cũng không phải bận tâm về chủ nghĩa hoài nghi!

Nhưng luận cứ của Reid đòi hỏi giả thuyết rằng lập luận là một năng lực và rằng những người hoài nghi chủ nghĩa nhất thiết phải sử dụng nó. Khi đó, lý do cho các giả thuyết đó là ở đâu? Chúng có thể bị bác bỏ hay không? Luận cứ này chứa các tiền đề giáo điều và chúng có thể sai.